Phong cách Ukiyo-e

Thiếu nữ thăm đền lúc đêm khuya, Harunobu, thế kỷ XVII. Các đường nét rõ ràng và đồng nhất xác định và bao quanh các vùng có màu sắc đồng nhất.

Các nghệ sĩ ukiyo-e thuở sơ khai đã đưa vào trong các tác phẩm một lượng kiến thức tinh vi phức tạp về các nguyên lý về bố cục trong nghệ thuật hội họa kinh điển của Trung Quốc, cũng như có sự luyện tập khắt khe về chúng; một cách chậm rãi, những nghệ sĩ này từ bỏ dần ảnh hưởng công khai từ Trung Quốc để phát triển một cách biểu đạt thuần tuý Nhật Bản. Những nghệ sĩ ukiyo-e sơ khai này được gọi là "những người nguyên thuỷ" (Primitives), theo nghĩa môi trường in ấn là một thách thức mới cho loại hình nghệ thuật mà họ đã áp dụng những kỹ thuật đã có niên đại hàng thế kỷ này - các thiết kế hình ảnh của họ không được coi là "nguyên thuỷ".[133] Nhiều nghệ sĩ ukiyo-e đã nhận được sự đào tạo từ những người chỉ dạy của môn phái Kanō và các môn phái hội họa khác.[134]

Một điểm đặc trưng đã được xác định của hầu hết các bản tranh in ukiyo-e là một kiểu nét vẽ được phân định rõ ràng, rõ nét và đồng nhất.[135] Các bản in sớm nhất chỉ có màu đơn sắc, và những đường nét này là yếu tố duy nhất được in ra; kiểu vẽ nét đặc thù này tiếp tục thống trị ngay cả với sự xuất hiện của màu sắc.[136] Trong ukiyo-e, các dạng bố cục được bố trí trong các không gian phẳng[137] với các hình thể thông thường ở cùng một độ sâu mặt phẳng duy nhất. Sự chú ý được dồn vào các mối quan hệ theo chiều dọc và chiều ngang, cũng như các chi tiết như các đường nét, hình dạng và hoạ tiết, chẳng hạn như những hoạ tiết trên trang phục.[138] Bố cục thường là bất đối xứng, và điểm nhìn thường nằm ở những góc độ bất thường, chẳng hạn như từ bên trên xuống. Các yếu tố hình ảnh thường được cắt xén, tạo cho bố cục một cảm giác thanh thoát.[139] Trong các bản in màu, đường viền của hầu hết các vùng màu sắc được xác định rõ ràng, thường là do sự đi nét kĩ.[140] Tính thẩm mỹ của những vùng đồng nhất về màu sắc tỏ ra tương phản với việc điều chỉnh màu sắc theo vùng của các truyền thống hội họa phương Tây[137] và với các truyền thống đương đại nổi bật khác trong nghệ thuật Nhật Bản được bảo trợ bởi tầng lớp thượng lưu, chẳng hạn như trong các nét bút lông với mực đơn sắc huyền ảo của nghệ thuật vẽ tranh bằng bút lông zenga hoặc màu sắc theo tông của tranh theo môn phái Kanō.[140]

Mỹ học wabi-sabi trong một bát uống trà thế kỷ XVI

Các hoạ tiết đầy màu sắc, hoành tráng và phức tạp, liên quan đến việc thay đổi về thời trang, và các tư thế cũng như bố cục mang tính căng thẳng và đầy nhịp điệu trong ukiyo-e rất trái ngược với nhiều khái niệm trong thẩm mỹ Nhật Bản truyền thống. Nổi bật trong những điều này, wabi-sabi ủng hộ tính đơn giản, bất đối xứng và không hoàn hảo, với bằng chứng về sự trường tồn theo thời gian;[141]shibui đánh giá sự tinh tế, khiêm nhường và nhẫn nhịn.[142] Ukiyo-e có thể ít xung đột hơn với các khái niệm thẩm mỹ như sự thịnh vượng, phong cách lịch thiệp của iki.[143]

Ukiyo-e biểu thị một cách tiếp cận khác thường với phối cảnh đồ hoạ, một điểm có thể xuất hiện một cách kém phát triển khi so sánh với các bức tranh Châu Âu cùng thời kỳ. Phối cảnh đồ hoạ theo kiểu Tây phương đã được biết đến ở Nhật—được thực hiện một cách nổi bật nhất bởi các họa sĩ thuộc môn phái Akita trong thập niên 1770—cũng như các phương pháp của Trung Quốc để tạo ra một cảm giác về chiều sâu bằng cách sử dụng sự đồng nhất của các đường song song. Các kỹ thuật này đôi khi xuất hiện cùng nhau trong các tác phẩm ukiyo-e, phối cảnh đồ hoạ cung cấp một ảo giác về chiều sâu trong cảnh nền và phối cảnh rõ nét hơn của Trung Quốc ở phía trước.[144] Các kỹ thuật này hầu như được học đầu tiên từ những bức tranh theo phong cách phương Tây của Trung Quốc, chứ không phải là trực tiếp từ các tác phẩm phương Tây.[145] Một thời gian dài sau khi trở nên quen thuộc với những kỹ thuật này, các nghệ sĩ vẫn tiếp tục cân đối hài hòa chúng với các phương pháp truyền thống theo nhu cầu về cách sắp xếp bố cục và nhu cầu biểu cảm của chúng.[146] Những phương cách tạo ra chiều sâu khác bao gồm phương pháp về bố cục ba phần của Trung Quốc được sử dụng trong các hình ảnh Phật giáo, ở đó một hình dáng lớn được đặt ở tiền cảnh, nhỏ hơn ở trung cảnh, và nhỏ hơn nữa ở hậu cảnh; điều này có thể nhận biết được trong tác phẩm Sóng lừng ngoài khơi Kanagawa của Hokusai, với một chiếc thuyền lớn ở tiền cảnh, một chiếc nhỏ hơn ở phía sau, và một Đỉnh Fuji nhỏ nằm phía sau chúng.[147]

Có một khuynh hướng bắt đầu từ thời kỳ đầu của ukiyo-e để tạo dáng cho những người đẹp theo cách mà nhà sử học về nghệ thuật Wakakura Midori (ja) gọi là một "dáng điệu hình con rắn",[lower-alpha 10] kiểu tư thế mà cơ thể của các chủ thể xoắn lại một cách không tự nhiên trong khi đang chạm mặt với chính mình. Nhà sử học về nghệ thuật Kōno Motoaki (ja) đã cho rằng điều này có nguồn gốc trong điệu múa buyō truyền thống; Suwa Haruo (ja) đã phản bác rằng các tư thế đó là đặc thù về mỹ thuật do các nghệ sĩ ukiyo-e thực hiện, khiến cho một tư thế dường như thoải mái có thể tạo ra những thái cực không tự nhiên hoặc không thể xảy ra. Điều này vẫn tồn tại ngay cả khi các kỹ thuật phối cảnh thực tế đã được áp dụng cho các phần khác của bối cảnh.[148]

Chủ đề và thể loại

Các chủ đề tiêu biểu là những người phụ nữ đẹp ("'bijin-ga'"), diễn viên kabuki ("'yakusha-e'"), và phong cảnh. Những phụ nữ được miêu tả thường là những kỹ nữ hạng sang và geisha trong lúc nhàn rỗi, và quảng bá các hoạt động giải trí tồn tại trong các khu phố lầu xanh.[149] Các chi tiết mà nghệ sĩ mô tả về thời trang và kiểu tóc của kỹ nữ hạng sang cho phép các bản in có thể xác định được niên đại với độ tin cậy nhất định. Sự chú ý thứ yếu nhằm đến tính chính xác của các đặc điểm thể chất của phụ nữ, điều tiếp nối các kiểu thời trang qua tranh ảnh của thời đại đó—khuôn mặt rập khuôn, thân hình cao và dày dặn ở một thế hệ này, trong khi nhỏ nhắn hơn trong một thế hệ khác.[150] Chân dung của những người nổi tiếng được yêu cầu khá nhiều, đặc biệt là những người từ giới kabuki và sumo, hai trong số những thú giải trí phổ biến nhất của thời đại này.[151] Trong khi tranh phong cảnh đã giúp định hình được ukiyo-e cho rất nhiều người phương Tây, loại hình này lại phát triển tương đối muộn trong lịch sử của ukiyo-e.[74]

Tranh chân dung của những người đẹp là trụ cột của ukiyo-e. Giấy dán tường và các vật dụng khác trong bản in gấm này được dập nổi một cách tài tình.
Tuyết chiều nơi sàn phơi, Harunobu, 1766

Các bản in của ukiyo-e đã phát triển từ tranh minh hoạ cho sách—nhiều bản in trang đơn đầu tiên của Moronobu là các trang từ những cuốn sách ông đã vẽ minh hoạ.[12] Các cuốn sách tranh minh hoạ e-hon được phổ biến[152] và tiếp tục là một thị trường quan trong cho các nghệ sĩ ukiyo-e. Vào thời kỳ cuối, Hokusai đã sản xuất bộ ba tập Một trăm cảnh núi Phú Sĩ và bộ mười lăm tập Bắc Trai mạn hoạ, đây là một bản tóm tắt của hơn 4000 bản phác thảo theo nhiều chủ đề hiện thực và kỳ dị.[153]

Các tôn giáo truyền thống của Nhật Bản không coi tình dục hoặc tranh ảnh khiêu dâm là sự sai lệch về đạo đức như trong cảm thức của Do Thái-Kitô,[154] và cho đến khi diễn ra sự thay đổi về mặt nhận thức đạo đức của thời đại Minh Trị dẫn đến sự đàn áp với thể loại này, các bản in khiêu dâm shunga vẫn là một thể loại chính.[155] Trong khi chế độ Tokugawa áp dụng chế độ kiểm duyệt nghiêm ngặt cho Nhật Bản, nội dung khiêu dâm không bị coi là một hành vi phạm tội quan trọng và thường nhận được sự chấp thuận của người kiểm duyệt.[62] Nhiều trong số những bản in này cho thấy mức độ cao trong việc diễn tả qua nét vẽ, và thường có tính hài hước, trong những miêu tả rõ ràng về cảnh phòng the, những người thích xem tranh ảnh khiêu dâm, và giải phẫu quá khổ.[156] Cũng giống như những miêu tả về kỹ nữ hạng sang, những hình ảnh này gắn liền với những thú tiêu khiển của những khu phố đèn đỏ.[157] Gần như mọi bậc thầy ukiyo-e đều vẽ shunga vào một thời điểm nào đó.[158] Những hồ sơ lưu trữ về sự chấp nhận của xã hội cho shunga hầu như không hề có, mặc dù Timon Screech cho rằng hầu như chắc chắn có một số lo ngại về vấn đề này, và mức độ chấp nhận của nó đã bị cường điệu hóa bởi các nhà sưu tập sau này, đặc biệt là ở phương Tây.[157]

Các khung cảnh từ thiên nhiên là một phần quan trọng của nghệ thuật châu Á trong suốt lịch sử. Các nghệ sĩ đã nghiên cứu kỹ các hình thức và giải phẫu chính xác về thực vật và động vật, mặc dù các mô tả giải phẫu về người vẫn tỏ ra kỳ cục hơn cho tới thời kỳ hiện đại. Các bản in về tự nhiên của ukiyo-e được gọi là kachō-e (ja), dịch ra có nghĩa là "tranh về hoa và chim muông", mặc dù thể loại này không chỉ nói về hoa hay chim muông, cũng như hoa cỏ và chim không nhất thiết phải xuất hiện cùng nhau.[73] Các bản in chi tiết, chính xác của Hokusai đã được ghi nhận với việc thành lập kachō-e như một thể loại.[159]

Cải cách Thiên Bảo vào thập niên 1840 đã ngăn chặn việc miêu tả các diễn viên và những người kỹ nữ. Bên cạnh tranh phong cảnh và kachō-e, các nghệ sĩ đã chuyển sang mô tả các cảnh trong lịch sử, chẳng hạn như các chiến binh cổ đại hoặc các cảnh từ huyền thoại, văn học và tôn giáo. Tác phẩm thế kỷ XI Truyện kể Genji[160] và tác phẩm thế kỷ XIII Truyện kể Heike[161] đã là nguồn cảm hứng cho nghệ thuật trong suốt lịch sử Nhật Bản,[160] trong đó có ukiyo-e.[160] Các chiến binh và kiếm sĩ nổi tiếng như Miyamoto Musashi (1584–1645) là những đối tượng được miêu tả thường xuyên, cũng như những sự mô tả về quái vật, các thể lực siêu nhiên, và những anh hùng của thần thoại Nhật BảnTrung Quốc.[162]

Từ thế kỷ XVII đến XIX, Nhật Bản đã tự cô lập chính mình khỏi phần còn lại của thế giới. Thương mại, chủ yếu với Hà Lan và Trung Quốc, bị giới hạn ở đảo Dejima gần Nagasaki. Những bức tranh về người ngoại quốc mang tên Nagasaki-e được bán cho khách du lịch nước ngoài cùng đồ dùng của họ.[97] Vào giữa thế kỷ XIX, Yokohama đã trở thành khu định cư nước ngoài đầu tiên sau năm 1859, từ đó kiến thức phương Tây đã có dịp được sinh sôi nảy nở ở Nhật Bản.[163] Đặc biệt từ năm 1858 đến năm 1862, các bản in Yokohama-e được in ra, với nhiều cấp độ khác nhau của sự kiện và thị hiếu, cộng đồng ngày càng tăng của các cư dân trên thế giới mà người Nhật đã tiếp xúc;[164] những bộ tam liên họa (triptych) về người phương Tây và công nghệ của họ đặc biệt phổ biến.[165]

Các ấn bản đặc biệt bao gồm surimono, các bản in chất lượng cao với số lượng giới hạn dành cho những người sành sỏi, trong đó có một bài thơ kyōka năm dòng thường là một phần của thiết kế;[166]uchiwa-e được in lên quạt tay, thường được lắp cán.[12]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ukiyo-e http://www.questia.com/library/61640044/masters-of... http://www.questia.com/library/7931253/japanese-ma... http://libx.bsu.edu/utils/getfile/collection/BSMng... http://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb119397415 http://data.bnf.fr/ark:/12148/cb119397415 http://id.loc.gov/authorities/subjects/sh85139330 http://d-nb.info/gnd/4186686-1 http://www.japantimes.co.jp/news/2016/06/23/nation... http://id.ndl.go.jp/auth/ndlna/00573979 http://viewingjapaneseprints.net/texts/topictexts/...